
Bên dưới sự phẳng lặng…
Một nền khoa học, nhất lại là khoa học xã hội phát triển, lành mạnh thường luôn ăm ắp những phát hiện, kiến giải mới. Chúng có thể đúng, có thể sai, có thể tuyệt đối, có thể tương đối, có thể nhận được đồng thuận cao, khen ngợi hoặc ý kiến trái chiều phản biện hay phản bác lại. Sự khác biệt, tranh luận thậm chí là phủ nhận trên tinh thần thượng tôn khoa học ấy là minh chứng sức sống, sự vận động, phát triển cũng như nỗi nhọc nhằn của những người LÀM khoa học chân chính.
Còn khi sự “im lặng” hay “phẳng lặng” ngự trị trong hàng thập kỉ có phải là tín hiệu tốt hay điều đó khiến người ta phải đưa ra nhiều giả thiết, nhiều phán đoán hay thậm chí hoài nghi về một căn bệnh nào đó?
Thứ nhất, có phải đây là kết quả của một sự bế tắc, không tìm ra được hướng đi, vấn đề, phương pháp hay cách luận giải mới trong khoa học xã hội? Liệu có phải vì thế mà người vẫn cứ mải “hoài niệm đồng ca” trên những lối mòn mà thế hệ cha anh đã khai phá? Nếu đúng đây là căn bệnh, thì cần thiết phải nhìn lại chương trình đào tạo ở mọi bậc học, xem tính sáng tạo và cập nhật có được đề cao trong trường học hay không. Tôi đã được nghe lời than thở từ một nhà khoa học rằng khi xem bài chép trên lớp của người con vốn theo học cùng ngành ở đại học, cùng thầy dạy, anh giật mình khi nhận ra chẳng có gì khác biệt so với những gì anh được học gần 40 năm về trước!
Thứ hai, có phải đây là kết quả của sự “tụt hậu” của người làm khoa học đối với những biến đổi ồn ào, gấp gáp của cuộc sống. Liệu có phải vì thế mà ngòi bút của nhà khoa học chỉ quẩn quanh bên những đề tài xáo mòn, những luận giải theo kiểu “nước đôi, nửa vời” hay những “kiến nghị” chung chung mà người làm chính sách có đốt đèn đọc thâu đêm cũng chẳng rút ra được điều gì cụ thể, bổ ích. Tôi đã nghe hơn một lần phàn nàn rằng sao bây giờ các công trình khoa học cứ công thức thế, cứ “dầm mình”, giống nhau đến kì lạ trong những chủ đề, lối mòn “xưa như Diễm” đến thế?
Thứ ba, có phải ở ngoài kia đang vẫy gọi nhiều nhiều điều khác quan trọng, ý nghĩa hay thiết thực hơn đối với không ít nhà khoa học (nhất là nhà khoa học trẻ), khiến họ mải mê chạy theo để rồi thờ ơ với công việc nhọc nhằn trên cánh đồng tri thức còn đang bộn bề với bao dấu hỏi. Đã nhiều lần, các thế hệ tiền bối của tôi chia sẻ nỗi niềm đau đáu về một cuộc “khủng hoảng” thế hệ khi họ ngờ rằng nhiều người trẻ trong giới không còn đủ “máu lửa”, say mê và độ cần mẫn để nối bước tiền nhân. Họ chỉ ra rằng nhiều đồng nghiệp trẻ đã không mấy khi đọc nghiêm túc các công trình khoa học của người khác, những cuốn sách tặng dường như chẳng được giở ra để đọc bao giờ. Trong các diễn đàn khoa học, tranh luận chủ yếu diễn ra giữa một vài người, còn số đông thì mải mê nhắn tin, lướt mạng hay “tám chuyện”…
Thứ tư, Có phải chúng ta chưa xây dựng đủ chính sách khuyến khích, khen thưởng, cổ vũ thậm chí là bảo vệ, đảm bảo không khí lành mạnh, dân chủ, thượng tôn khoa học trong phản biện khoa học. Liệu chúng ta thực sự cổ súy những công trình đề cao tính phản biện, lấy phản biện làm bệ phóng cho việc tìm tòi các vấn đề, hướng đi mới trong khoa học. Từ lâu, tồn tại một cách nói vui trong giới khoa học rằng đề tài nghĩa là “tài” chọn “đề”, đừng có dại gì mà lao vào những vấn đề thời sự, hóc búa. Hãy cứ chọn vấn đề nào đó người khác đã làm, đã được nghiệm thu, đánh giá, chấm điểm cao. Rồi thì “men” theo đó mà đi.
Văn hóa cho và nhận
Bản chất của phản biện khoa học không phải là so tài “cao, thấp”, phân định rạch ròi “trắng đen” hay quy kết “lập trường chính trị” của ai đó. Trái lại, phản biện nhằm kiểm chứng tính logic, chính xác, phổ quát và khách quan mà thông tin, nhận định, kết luận được rút ra từ một công trình khoa học cụ thể. Chính vì thế, phản biện cần phải coi là một phần tất yếu trong nghiên cứu khoa học bởi chẳng có nền khoa học nào tồn tại mà không có phản biện.
Người nhận được ý kiến phản biện vì thế cần phải biết cầu thị, lắng nghe và tôn trọng ý kiến phản biện. Dù có thể chúng khác, thậm chí đối ngược với quan điểm khoa học của mình. Cũng đừng coi phản biện từ những đồng nghiệp trẻ hơn, có phẩm hàm, địa vị thấp hơn mình là “cầm đèn chạy trước ô tô” hay “trứng khôn hơn vịt”. Cũng đừng đồng nhất tinh thần tranh biện khoa học với tính “hiếu thắng”, “tinh tướng”, “khoe khoang”, “xấc xược” hay thiếu “kính trên, nhường dưới” để rồi âm thầm ném trả lại họ một mớ quy kết về đạo đức, tư tưởng hay lập trường chính trị. Một vài đồng nghiệp trẻ từng tâm sự họ rất khó xử khi thầy dạy hay lãnh đạo của mình quá “thù dai” trước những phát biểu trái chiều mà họ đưa ra thảo luận trong các buổi sinh hoạt khoa học. Sau những lần ấy, họ cảm thấy mình dường như bị “ghẻ lạnh”, thậm chí bị “cô lập”.
Người nhận được ý kiến phản biện có nguyên vẹn quyền đồng ý hay phản đối ý kiến phản biện, chừng nào họ có đủ bằng chứng, lí lẽ để bảo vệ quan điểm của mình. Ngay cả trong trường hợp đó, ý kiến phản biện vẫn có ích, bởi nó giúp bạn nhìn lại kĩ hơn công trình của mình. Chính vì thế, sẽ là không cần thiết khi ném “cái nhìn hình viên đạn” hay thái độ bực dọc, kẻ cả trước một ý kiến phản biện nào đó.
Người nhận được ý kiến phản biện nên ưu tiên tập trung vào việc giải thích, làm rõ và chứng minh tính logic, đúng đắn, hợp lí, khách quan, phổ quát từ kết quả nghiên cứu của mình thay vì chỉ chăm chăm chỉ ra “cái sai”, hay “phi lí vớ vẩn” của những ý kiến phản biện. Một nhà khoa học tỉnh táo, bản lĩnh luôn hiểu rằng, chứng minh quan điểm của người khác sai không nhất thiết có nghĩa quan điểm của mình là đúng.
Ở một chiều kích khác, người phản biện không nên lấy việc chỉ ra điểm hạn chế của người khác làm niềm vui, làm sự hãnh diện của mình. Chẳng có công trình khoa học nào hoàn mĩ, mãi mãi là chân lí cả. Vì thế, sẽ là vô cùng tuyệt vời nếu người phản biện coi việc đưa ra ý kiến tranh luận của mình là một cách “đồng cảm”, chia sẻ kiến thức. Bởi lẽ tạo ra một công trình khoa học khó hơn nhiều lần so với việc phản biện nó.
Sẽ là tuyệt vời nếu người phản biện đủ dũng cảm để không đồng nhất ý kiến phản biện của mình với “chân lí”, “sự thật” hay “con đường duy nhất”. Sẽ là thuyết phục hơn nếu quan điểm phản biện ấy được đưa ra như một gợi ý, một lựa chọn khác thay vì “đóng đinh” chúng như chuẩn mực, buộc người khác phải đi theo. Bởi chẳng có giới hạn trường tồn nào trong khoa học cả.
Người phản biện sẽ thật khôn ngoan khi không tự đặt mình ở thế đối lập, đối đầu với người mình phản biện. Bởi thực chất, công việc phản biện cũng là hoạt động khoa học, nó có thể được hoặc không được chấp nhận từ người khác. Bởi lẽ nếu ai cũng làm vậy, cuộc tranh luận khoa học sẽ chẳng đi về đâu cả. Khi cái “Tôi” của mỗi người quá lớn, phản biện khoa học dễ biến thành cái “chợ”, nơi người ta khoe hơn là lắng nghe.
Câu hỏi để lựa chọn
Sự phẳng lặng quá lâu có thể khiến đâu đó lầm tưởng khoa học xã hội nước nhà toàn phát hiện ra chân lí, toàn giải quyết nhanh chóng, tròn trịa, toàn mĩ những vấn đề của xã hội, đến độ người ta chẳng có nhu cầu trao đi, đổi lại? Người ta có thể lầm tưởng mọi công trình khoa học nước nhà đã đạt đến trình độ cao, ở “cảnh giới” siêu thực đến độ việc phản biện là không cần thiết nữa.
Người ta cũng có thể đặt câu hỏi cho việc liệu có cần phải xem xét lại các tiêu chí đánh giá đóng góp cho xã hội của một công trình khoa học. Giữa một công trình “an toàn” ngủ yên trên giá sách hàng thập kỉ không ai buồn đọc và một công trình gây ra nhiều “ồn ào” với cả lời khen ngợi và chê bai, người ta nên cổ súy cho phía nào?