Thiện nguyện (philanthropy) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tình yêu con người/nhân loại - love of people/humanity”. Như vậy, gốc rễ của từ philanthropy làm cho chúng ta nghĩ đến mục đích của các tổ chức thiện nguyện và hành vi thiện nguyện là thể hiện tình yêu con người thông qua các hành động tốt. Còn philanthropist (người làm thiện nguyện) là những người có tình yêu con người và sẵn sàng giúp đỡ người khác, đặc biệt những người gặp hoạn nạn và kém may mắn. 
Chạy vì người mình yêu để kêu gọi giảm chi phí y tế do người bệnh phải trả về 0 do Oxfam và ECUE tổ chức
Chạy vì người mình yêu để kêu gọi giảm chi phí y tế do người bệnh phải trả về Zero do Oxfam và ECUE tổ chức

Cơ sở triết lý của hành vi cho
 
Theo Sherry thì hành vi đóng góp từ thiện được giải thích dựa trên lòng trắc ẩn (altruism) và tính vị kỷ/tư lợi (egoism) . Về cơ bản, lòng trắc ẩn được định nghĩa là hành động vì lợi ích của người khác, còn tính vị kỷ thì được hiểu như lợi ích cá nhân là nguyên tắc nền tảng cho hành động cho.
 
Lòng trắc ẩn được cổ vũ bởi các tôn giáo khác nhau. Thiên Chúa Giáo nhấn mạnh tình yêu và từ thiện là biểu hiện của niềm tin vào chúa. Đạo Hồi cho rằng từ thiện dù là tự nguyện hay bắt buộc đều là hành động thỏa mãn mong đợi của đức Allah. Đạo Phật nhấn mạnh đến việc tiết chế lòng tham cá nhân và sự giúp đỡ chúng sinh. Còn đạo Do Thái thì tôn vinh hành vi hào hiệp và các hoạt động vì cộng đồng. Khác với tôn giáo, chủ nghĩa nhân đạo lại dựa vào lý trí để khuyến khích hành vi từ thiện. Đối với những người theo chủ nghĩa nhân đạo, việc giảm nỗi đau của người khác là một hành động có ý nghĩa với cá nhân, tạo ra cảm giác hạnh phúc, và đóng góp vào lợi ích chung.
 
Các nhà triết học giải thích một cách khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về hành vi từ thiện. Với Aristotle, Rousseau và một số nhà tâm lý học gần đây như Carl Rogers và Abraham Maslov, bản chất của con người là giúp đỡ người khác qua khỏi đau khổ, hoặc con người có tính hy sinh cho lợi ích của cộng đồng. Điều này có nghĩa nếu một ai đó không thực hiện hành vi giúp đỡ người khác trong nguy khốn thì đó là biểu hiện của sự thoái hóa đặc tính người. Ngược lại, Machiavelli, Hobbes và Freud cho rằng bản tính con người là ích kỷ, tư lợi. Theo quan điểm này, các hành vi từ thiện không xuất phát từ bản tính người mà do cấu trúc xã hội áp đặt hành vi này lên con người. Một trong biểu hiện rõ nhất đó là trừng phạt những ai vi phạm luật lệ của xã hội.
 
Tuy nhiên, nhiều người trong đó có Franklin Gamwell cho rằng một hành vi thiện nguyện đối với người này có thể được diễn đạt như là do lòng trắc ẩn nhưng đối với người khác lại xuất phát từ tư lợi. Từ góc nhìn này, theo Dwight L Burlingame thì cả lòng trắc ẩn lẫn tính tư lợi đều tồn tại song song trong một con người làm cho họ có tinh thần hợp tác. Mọi hành vi của con người không chỉ có động cơ vì người khác hoặc chỉ vì lợi ích của mình, mà bao gồm cả hai. Nhà triết học giáo dục Dewey, từ đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục không phải là cân bằng hai động cơ này mà là làm sao để phát triển cái tôi mà ở đó các hành vi có lợi cho xã hội được coi trọng.
 
Một quan điểm chính khác cho rằng các hành vi vì lợi ích của người khác thường xuất phát từ lòng thấu cảm hay năng lực nhận thức được tình cảnh của một người và có cảm xúc với hoàn cảnh của người. Clary và Snyder dựa vào đây để phát triển ra một khung giải thích tại sao một người lại tình nguyện làm việc thiện. Theo mô hình này thì có năm chức năng, đó là: (i) thể hiện giá trị - đó là thể hiện sự quan tâm cho người khác, hành động một cách vị tha; (ii) có tính thích nghi xã hội – hành động vì là thành viên của một nhóm; (iii) bảo vệ cái tôi – làm giảm cảm giác tội lỗi và giúp cá nhân cảm giác tốt; (iv) tri thức – học hỏi về một điều gì đó; (v) thực dụng – có thêm kỹ năng hoặc thông tin vì mục đích nghề nghiệp. Như vậy hành vi tình nguyện có cả động cơ cá nhân lẫn động cơ xã hội.
 
Theo Dwight L Burlingame, việc chỉ dựa vào lòng trắc ẩn để giải thích cho hành vi từ thiện là không đầy đủ, thậm chí còn phản tác dụng vì hai lý do. Lý do thứ nhất, mọi hành vi từ thiện đều có hai động cơ (tư lợi và vị tha) hoạt động cùng nhau. Lý do thứ hai, việc chỉ viện dẫn lòng trắc ẩn sẽ nâng người cho lên cao và hạ người nhận xuống thấp, và trong trường hợp đó nó sẽ phản tác dụng về mặt đạo đức. Theo William Dean thì việc lòng trắc ẩn ca ngợi người cho vì họ có thể cho mà không đòi hỏi phải đáp trả, còn làm thấp người nhận vì họ nhận mà không cần phải suy tư. Để giải quyết nghịch lý này, Robert Payton đưa ra khái niệm “hành động tự nguyện vì lợi ích công”. Theo khái niệm này, thì các hành động từ thiện bao gồm việc cho và nhận (tiền, vật dụng) một cách tự nguyện dựa trên lợi ích công sẽ có giá trị đạo đức trung tính. Theo Mike Martin , khi đó thì việc phán xét đạo đức sẽ phụ thuộc vào vụ việc cụ thể, đặc biệt khi xuất hiện xung đột về lợi ích giữa người cho và người nhận.

Như vậy có nhiều triết lý giải thích về hành vi từ thiện, nhưng dù xuất phát từ lòng trắc ẩn (altruism) hay tư lợi (egoism) thì cuối cùng vẫn là giúp cho cá nhân cảm thấy là một người tốt hơn sau khi đóng góp .
 
Lòng biết ơn và hành vi thiện nguyện

Ngoài triết lý dựa vào lòng trắc ẩn hay tư lợi, lòng biết ơn (gratitude) cũng được nghiên cứu và cho thấy đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động từ thiện. Lòng biết ơn được hiểu như là (i) một đáp trả cảm xúc với một sự tử tế; (ii) một tâm trạng biết ơn với những giá trị và niềm vui trong cuộc sống nói chung (ví dụ một ngày đẹp trời, một hành động tử tế) ; và (iii) một đặc điểm thể hiện lối sống biết trân trọng người khác và thế giới chúng ta đang sống . Lòng biết ơn, với cách hiểu như vậy, có vai trò quan trọng đối với cá nhân và xã hội, bao gồm việc cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần, chất lượng sống, và tính vị xã hội. Một số lý thuyết đã giải thích mối quan hệ giữa lòng biết ơn và tính vị xã hội, cụ thể lòng biết ơn như là (i) một phong vũ biểu đạo đức ; (ii) cơ sở cho sự trao đổi có đi có lại ; và (iii) duy trì và xây dựng sự gắn bó cũng như mối quan hệ xã hội . Theo McCullough lòng biết ơn khuyến khích và củng cố hành vi có đạo đức (khi được nói ra, lòng biết ơn sẽ khuyến khích người cho tiếp tục cho trong tương lai).

Lòng biết ơn ảnh hưởng đến tính vị xã hội mà trong đó hoạt động từ thiện dựa vào vì nó là động cơ đạo đức cho hành vi đáp trả (có đi có lại). Nguyên tắc có đi có lại là tối quan trọng để giải thích sự tồn tại của lòng trắc ẩn trong xã hội. Sự đáp trả có thể được chia thành trực tiếp hoặc gián tiếp. Đáp trả trực tiếp có nghĩa A giúp B và sau này B giúp lại A khi có dịp. Sự đáp trả trực tiếp này chỉ xảy ra khi A và B biết nhau và khi tương tác trong tương lai họ gợi nhớ lại hành vi quá khứ. Nếu A và B không biết nhau thì sự đáp trả có thể được thực hiện gián tiếp, ví dụ A giúp B và từ đó A có danh tiếng để A được C giúp khi A cần. Hoặc khi A giúp B thì B lại đi giúp C vì B trân trọng sự giúp đỡ do mình đã có trải nghiệm được giúp đỡ trong quá khứ. Như vậy lòng biết ơn và sự đáp trả giúp tăng sự hào phóng trong xã hội. Ngoài ra, theo Fredrickson , lòng biết ơn không chỉ có ảnh hưởng vượt qua sự đáp trả vật chất mà còn tác động đến việc xây dựng các mối quan hệ trong xã hội. Điều này là do cảm giác tích cực có được từ lòng biết ơn sẽ làm tăng sự gắn bó, giúp họ xây dựng các mối quan hệ mới, trân trọng các mối quan hệ đang có. Chính vì mối quan hệ này phát triển giúp cho việc trao đổi và hỗ trợ xã hội tốt hơn.
 
Việc tỏ lòng biết ơn (ví dụ như nói Cảm ơn) có tác động khuyến khích các hành vi vị xã hội. Nghiên cứu của McCullough cho thấy những người cho được nói “cảm ơn” có xác xuất tiếp tục cho trong tương lai cao hơn so với những người cho không được bày tỏ lòng biết ơn. Một trong những lý do là việc bày tỏ lòng biết ơn giúp cho người cho biết người nhận đã cảm nhận được sự tử tế của người cho và sẽ đáp lại trong tương lai. Các nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định việc này. Ví dụ nghiên cứu của Bartlett và DeSteno cho thấy những người nhận bày tỏ lòng biết ơn đã sẵn sàng giúp lại người cho ở những công việc khác (ví dụ điền các phiếu điều tra nhàm chán), hoặc thậm chí giúp đỡ một người thứ ba khác. Việc bày tỏ lòng biết ơn (I am grateful to you) là một dự báo tốt hơn cho việc đáp trả trong tương lai với việc bày tỏ một nghĩa vụ (I own you one). McCullough cho rằng việc bày tỏ lòng biết ơn thì tạo ra cảm giác tích cực hơn việc bày tỏ nghĩa vụ phải hoàn trả.
 
Lòng biết ơn là một trong những cảm xúc quan trọng nhất thúc đẩy con người cho đi. Theo Adam Smith, con người sẽ thường tỏ lòng biết ơn với những người có ý định giúp đỡ họ, đã giúp đỡ họ, và thấu hiểu cảm giác biết ơn của họ. Các nhà lý thuyết sau này Simmel và Gouldner cho rằng lòng biết ơn là cơ sở để thúc đẩy sự trả ơn của con người, là ký ức đạo đức của loài người, và một bổ sung tuyệt vời cho những thể chế chính thức (như luật và hợp đồng) trong việc duy trì nguyên tắc “có đi có lại” cho xã hội. Theo Simmel, con người còn có cả cảm giác biết ơn với những nghệ sĩ, nhà chính trị thậm chí họ chưa gặp mặt bao giờ, những người mà qua những hành động gián tiếp có lợi cho họ. Như vậy, lòng biết ơn theo Simmel thì vượt qua những vật chất mà mở rộng qua những thứ phi vật chất như tình yêu, sự ủng hộ, hoặc truyền cảm hứng. Quan trọng hơn, lòng biết ơn có được từ những món quà mà không thể đáp trả lại (như mạng sống) thì tạo ra sự trung thành và nghĩa vụ trọn đời.